Mật rắn (thường gọi đởm xà) được chế biến bằng cách dùng một ít trần bì tẩm mật rắn đem sấy, làm đi làm lại nhiều lần, cuối cùng sấy khô, tán bột. Có thể chế bằng cách buộc chặt túi mật rồi tẩm rượu, phơi âm can cho khô, làm 3 lần trong 3 ngày, rồi treo lên cho đến khi khô kiệt để dùng. Mật rắn vị ngọt, cay, không đắng, tác dụng hạ sốt, giảm đau, tiêu đờm giảm ho, nhất là trị hen suyễn ở trẻ em rất tốt.
Huyết rắn (huyết xà) có tác dụng tăng cường sinh lực, bổ thận làm mạnh gân cốt. Chữa lưng đau, gối mỏi, sinh lý yếu, thường dùng pha rượu uống.
Xương rắn: Đập chết rắn, đem chôn, sau 3 tháng lấy xương sống, rửa sạch sao vàng cho vào túi vải ngâm rượu, có thể ngâm chung với một số vị thuốc khác, dùng trị phong thấp hiệu quả.
Da rắn: Dùng xác lột con rắn (xà thoái), thành phần hóa học chứa kẽm oxide, titan oxide. Xà thoái vị ngọt, mặn, tính bình, quy kinh can, tỳ tác dụng khu phong, chỉ kinh, tiêu sưng, sát trùng, lui màng mộng. Điều trị các chứng co giật ở trẻ, phong ngứa ngoài da, mắt màng nội chướng, dùng ngoài (sao cháy) trị đinh nhọt, lở loét, trĩ rò, lở ngứa, ung sưng, loa lịch.
Mỡ rắn tác dụng bài độc, sinh cơ, làm chóng lên da non, điều trị các trường hợp bỏng lửa, chốc đầu, nứt nẻ da chân, thường dùng kết hợp với một số vị thuốc khác.
Thịt rắn được chế biến bằng cách chặt bỏ đầu đuôi, loại bỏ phủ tạng, thịt rắn giàu chất đạm, là nguồn cung cấp các acid amin, dinh dưỡng thiết yếu giúp nuôi dưỡng và bền vững các dây chằng, tăng cường hoạt dịch cho khớp và tái tạo sụn khớp. Thịt rắn chứa nhiều vitamin và các khoáng chất quý như kali, calci, sắt, kẽm, vitamin A, D, B1, B2, B6, B9… Theo Đông y, thịt rắn vị ngọt, tính ấm, quy kinh can, tỳ, có tác dụng bổ dưỡng, trừ phong thấp, đau nhức xương khớp, tê mỏi, gai đôi cột sống, thoái hóa khớp, chứng ngứa ngoài da, nhất là ngứa kinh niên như bệnh chàm (eczema).